Vào năm 2025, nguồn cung quặng sắt sẽ bước vào một chu kỳ tăng trưởng mới, với dự kiến tăng trưởng sản lượng mạnh từ Úc, trong khi nhu cầu đang trong chu kỳ giảm. Cung và cầu quặng sắt dự kiến nối tiếp trạng thái lỏng lẻo của năm 2024. Trong môi trường cung cầu lỏng lẻo, trọng tâm của giá quặng sắt có thể sẽ tiếp tục đi xuống.
Trong năm ngoái, các nguyên tắc cơ bản của quặng sắt đã đảo ngược, giá dần giảm với giá cuối năm mất 20% giá trị so với đầu năm.
Trong Q1/2024, giá quặng sắt kỳ hạn giảm từ 1,000 NDT/tấn xuống còn 750 NDT/tấn. Sang Q2, khi các nhà máy thép dần sản xuất trở lại, nhu cầu tiêu thụ quặng cải thiện nhẹ đẩy giá tăng lên trên 900 NDT/tấn.
Đến Q3, do áp lực kép của nhu cầu hạ nguồn yếu và lượng hàng tồn kho tiếp tục tăng, giá đã giảm xuống mức thấp 650 NDT/tấn và đến Q4, khi yếu tố kinh tế vĩ mô tích cực, giá lại tăng mạnh trở lại khoảng 850 NDT/tấn. Đánh giá theo xu hướng trong suốt cả năm 2024, trọng tâm của giá quặng sắt dịch chuyển xuống dưới. Vậy thị trường quặng sắt sẽ diễn biến thế nào vào năm 2025?
Đầu tiên phải kể đến nguồn cung. Trong những năm gần đây, khi lợi nhuận và dòng tiền của các mỏ chính ở nước ngoài tiếp tục được cải thiện, mức độ sẵn sàng đầu tư của các mỏ chính ở nước ngoài cũng dần tăng lên. Kể từ năm 2018, chi phí vốn của 4 mỏ lớn Rio Tinto, BHP Billiton, Vale và Fortescue đã tăng đều đặn.
Thông thường, chu kỳ chi tiêu vốn dẫn trước chu kỳ năng lực sản xuất từ 3 đến 5 năm. Do chi phí vốn của các mỏ dòng chính đã tăng dần trong 5 năm qua, năng lực sản xuất quặng sắt của các mỏ dòng chính cũng sẽ mở ra một chu kỳ mở rộng chậm mới trong 5 năm tới.
Theo số liệu thống kê của Hiệp hội Thép Thế giới, xuất khẩu quặng sắt của Úc đã dần hồi phục sau khi chịu ảnh hưởng từ “sự cố bão” năm 2019, duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 10 triệu tấn trong 2 năm qua và xuất khẩu sẽ đạt mức tăng trưởng trung bình hàng năm khoảng 10 triệu tấn với mức cao lịch sử vào năm 2023 khoảng 900 triệu tấn. Sau vụ tai nạn "đập chất thải" Vale năm 2019, lượng xuất khẩu quặng sắt của Brazil cũng cho thấy sự phục hồi qua từng năm, đạt mức cao 379 triệu tấn vào năm 2023. Trong 11 tháng đầu năm 2024, lượng xuất khẩu đạt 358 triệu tấn, cao hơn năm trước.
Trong khi đó, ngoài bốn chi tiêu vốn khai thác mỏ lớn ở Úc và Brazil duy trì tốc độ tăng trưởng, chi tiêu vốn cho khai thác mỏ ở Châu Phi cũng tăng đáng kể. Dự án Simandou ở Guinea, hiện do các công ty như China Baowu và Rio Tinto của Australia cùng đầu tư và phát triển, được coi là một trong những nguồn tăng trưởng lớn nhất về năng lực sản xuất quặng sắt toàn cầu trong 5 đến 10 năm tới. Dự kiến trữ lượng của dự án đạt 2.4 tỷ tấn, trong đó hàm lượng sắt đạt 65%. Dự án dự kiến sẽ được đưa vào vận hành vào năm 2025, với công suất thiết kế hàng năm là 100 triệu tấn.
Ngoài dự án Simandou, còn có nhiều dự án quặng sắt đang được phát triển ở Úc, Brazil và Châu Phi. Chẳng hạn, Dự án Western Slope ở Úc do Tập đoàn Rio Tinto và China Baowu cùng đầu tư, dự kiến sẽ được đưa vào sản xuất vào năm 2025, với công suất tối đa là 25 triệu tấn/năm. Dự án quặng sắt BAMIN do Tập đoàn Tài nguyên Á-Âu của Brazil đầu tư và phát triển dự kiến sẽ được đưa vào khai thác vào năm 2027, với công suất thiết kế hàng năm là 27 triệu tấn. Dự án khai thác mỏ Mina Đức do Samarco Mineracao của Brazil đầu tư và phát triển có công suất thiết kế hàng năm là 20 triệu tấn và dự kiến sẽ dần được đưa vào sản xuất vào năm 2025. Ngoài ra, còn có dự án khai thác quặng sắt Gara Djebilet do doanh nghiệp Trung Quốc tài trợ tại Algeria, Châu Phi, dự kiến sẽ đưa vào khai thác vào năm 2026, với công suất thiết kế hàng năm là 25 triệu tấn. Sau khi các dự án khai thác mỏ nói trên đi vào hoạt động, dự kiến sẽ mang lại công suất sản xuất quặng sắt mới 200 triệu tấn/năm.
Dữ liệu mới nhất do Hiệp hội Thép Thế giới công bố cho thấy xuất khẩu quặng sắt toàn cầu đạt tổng cộng 1.71 tỷ tấn vào năm 2023. Trong số đó, xuất khẩu quặng sắt của Úc là 898 triệu tấn, chiếm khoảng 52.5% xuất khẩu quặng sắt toàn cầu; xuất khẩu quặng sắt của Brazil là 408 triệu tấn, chiếm khoảng 23.9% lượng quặng sắt xuất khẩu toàn cầu; lượng xuất khẩu là 405 triệu tấn, chiếm khoảng 23.7% lượng xuất khẩu quặng sắt toàn cầu.
Kể từ đầu năm 2024, xuất khẩu quặng sắt từ các nước không chính thống tiếp tục tăng, trở thành một trong những nguồn tăng trưởng chính trong xuất khẩu quặng sắt toàn cầu. Trong tương lai, khi dự án Simandou ở Guinea đi vào hoạt động, sự đóng góp của các nước không thuộc dòng chính thống vào sự tăng trưởng nguồn cung quặng sắt toàn cầu sẽ còn tăng thêm.
Tại Trung Quốc, được thúc đẩy bởi chính sách khuyến khích và lợi nhuận, nguồn cung quặng sắt Trung Quốc cũng duy trì tốc độ tăng trưởng tương đối cao trong hai năm qua. Theo số liệu của Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc, sản lượng quặng sắt thô đạt 991 triệu tấn vào năm 2023 và dự kiến sẽ vượt mức 1 tỷ tấn trong 2024. Đánh giá về mức tăng trưởng trong hai năm qua, sản lượng quặng sắt của Trung Quốc dự kiến sẽ duy trì mức tăng trưởng trên 5% trong vài năm tới.
Vào năm 2025, với việc giải phóng dần năng lực sản xuất mỏ ở nước ngoài và sự tiến bộ liên tục của trong nước, năng lực sản xuất quặng sắt toàn cầu sẽ bước vào một chu kỳ tăng trưởng mới trong 3 đến 5 năm tới và tổng sản lượng quặng sắt sẽ tăng lên.
Trong khi đó, nhu cầu lại giảm. Trong hai năm qua, bị ảnh hưởng bởi tốc độ hoạt động của ngành bất động sản giảm mạnh, nhu cầu thép của Trung Quốc cũng bước vào chu kỳ đi xuống, ngành luyện thép và gia công cán thép của Trung QUốc đang đối mặt với áp lực ngày càng giảm. Dữ liệu do Cục Thống kê Quốc gia công bố cho thấy tỷ suất lợi nhuận gộp của ngành chế biến cán và luyện kim loại màu đã giảm dần từ khoảng 10% vào năm 2021 xuống mức thấp lịch sử hiện nay là 3.5%. Tốc độ tăng trưởng đầu tư vào ngành công nghiệp cũng tiếp tục giảm, từ mức đỉnh điểm khoảng 10% xuống mức thấp nhất hiện nay là dưới 3%.
Trong môi trường mà đầu tư và lợi nhuận của ngành tiếp tục giảm, áp lực hoạt động mà các công ty thép phải đối mặt tiếp tục gia tăng. Số liệu khảo sát từ Liên đoàn Sắt thép Thượng Hải trên 247 nhà máy thép trên cả nước cho thấy, các công ty thép về cơ bản rơi vào tình trạng thua lỗ toàn bộ vào tháng 8/2024, tỷ suất lợi nhuận bình quân cả năm chỉ là 36%. Dữ liệu từ phía xác nhận rằng ngành thép đang trong chu kỳ đi xuống.
Bị ảnh hưởng bởi tác động kép của những thay đổi trong môi trường kinh doanh và chính sách của ngành, cơ chế tự kiềm chế kỷ luật của ngành luyện thép đang dần được củng cố. Trong giai đoạn thua lỗ nghiêm trọng, việc các nhà máy thép sẵn sàng tự nguyện cắt giảm và kiểm soát sản xuất đã tăng lên đáng kể. Mặc dù áp lực dư thừa công suất trong lĩnh vực luyện thép hiện nay vẫn còn cao, nhưng trong môi trường mà việc tự giác cắt giảm sản xuất và nhận thức về kiểm soát sản xuất đã tăng lên đáng kể, năng lực sản xuất của nhà máy thép vẫn phải chịu những hạn chế lớn hơn.
Theo dữ liệu từ Liên đoàn Sắt thép Thượng Hải, tỷ lệ sử dụng công suất trung bình của 247 nhà máy thép trên cả nước là 86% vào năm 2024 và 89.1% vào năm 2023. Khi việc sử dụng công suất tiếp tục giảm, sản lượng gang và thép thô cũng bắt đầu giảm.
Trong 5 năm qua, chính sách và lợi nhuận là yếu tố chính ảnh hưởng đến sản xuất gang. Số liệu của Cục Thống kê Quốc gia cho thấy sản lượng gang đạt đỉnh 888 triệu tấn vào năm 2020; bị ảnh hưởng bởi chính sách “kiểm soát tiêu thụ năng lượng kép” vào năm 2021, sản lượng gang giảm xuống còn 869 triệu tấn vào 2021. Sản lượng gang năm 2022 là 864 triệu tấn và sản lượng gang năm 2023 là 871 triệu tấn.
Có thể thấy, trong hai năm khi kiểm soát chính sách tương đối lỏng lẻo và áp lực lên sản xuất, vận hành nhà máy thép tương đối nhỏ, sản xuất gang cơ bản vẫn ổn định, biên độ thay đổi sản lượng từ 5 triệu đến 10 triệu tấn. Năm 2024 là năm chịu áp lực lớn nhất đối với hoạt động sản xuất và vận hành nhà máy thép trong 5 năm qua. Nếu không có chính sách điều tiết, sản lượng gang dự kiến sẽ giảm xuống còn 840 triệu tấn, trở thành năm có mức giảm lớn nhất trong 5 năm qua.
Năm 2025, ngành thép được dự báo vẫn sẽ phải đối mặt với áp lực sản xuất và vận hành lớn hơn, ý đồ của các chính sách hướng dẫn các nhà máy thép kiểm soát năng lực sản xuất ngày càng trở nên rõ ràng. Trong môi trường này, dự kiến sản lượng gang trong nước rất có thể sẽ duy trì được mức của năm 2024. Theo kỳ vọng trung lập, sản lượng gang sẽ tăng 5 triệu tấn; theo kỳ vọng lạc quan, sản lượng gang sẽ tăng 10 triệu tấn; theo kỳ vọng bi quan, sản lượng gang sẽ giảm 5 triệu tấn.
Dựa trên phân tích trên, sẽ có 3 kịch bản giả định về tình hình cung cầu quặng sắt vào năm 2025, đó là: trung lập, lạc quan và bi quan.
Hướng tới năm 2025, nguồn cung quặng sắt đã bước vào chu kỳ tăng trưởng mới, trong khi nhu cầu đang trong chu kỳ suy giảm, cung và cầu quặng sắt dự kiến sẽ tiếp tục ở trạng thái lỏng lẻo. Trong môi trường cung cầu lỏng lẻo, trọng tâm giá quặng sắt sẽ tiếp tục dịch chuyển xuống dưới. Mức trần cho hợp đồng kỳ hạn có thể là 830 NDT/tấn và mức sàn là 630 NDT/tấn.