Mỹ
HDG và CRC: Các nhà sản xuất đã tăng giá đáng kể cho thép mạ kẽm nhúng nóng (HDG) vào giữa tháng 11, đôi khi đưa ra mức giá tương đương với giá thép cuộn cán nguội (CRC) để giúp thiết lập lại mức chênh lệch giá so với thép cuộn cán nóng (HRC) nhằm thúc đẩy biên lợi nhuận của HDG.
Giá thép HDG cán nóng xuất xưởng đã tăng 38,50 đô la/tấn ngắn (st) lên 978,50 đô la/st trong tuần từ ngày 17 đến ngày 21 tháng 11.
Giá thép HDG cán nguội xuất xưởng tăng 38,50 đô la/st trong tuần qua, lên 989,75 đô la/st, đánh dấu mức tăng trong một tuần lớn nhất kể từ đầu tháng 3.
Giá CRC đã tăng 19,50 đô la/st trong tuần từ ngày 17 đến ngày 21 tháng 11, lên 1.045,25 đô la/st, mức giá cao nhất kể từ đầu tháng 8.
Giá nhập khẩu thép HDG cán nguội của Mỹ tăng nhẹ lên 1.050 đô la/st do giá trong nước tăng mạnh đã tạo điều kiện cho giá chào nhập khẩu tăng lên mức cao hơn so với mức giá đã thiết lập trước đó.
HRC: Các nhà máy thép cuộn cán nóng của Mỹ tiếp tục đẩy giá tăng qua từng tuần trong tháng 11, nhưng đà tăng đã chậm lại so với những tuần gần đây.
Giá HRC xuất xưởng của Mỹ đã tăng lên 886,75 đô la/tấn ngắn (st) trong tuần tính từ ngày 17 đến ngày 21 tháng 11, cao hơn 6,25 đô la/st so với giá trước đó ở phía đông dãy núi Rocky.
Giá HRC nhập khẩu tại Mỹ đã giảm 5 đô la/st, xuống còn 860 đô la/st (ddp Houston) do các báo giá dao động ở mức thấp hơn.
Thổ Nhĩ Kỳ
Thép cây: Giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng trong ngày thứ Ba, với một nhà máy lớn tại Izmir bán được một số lượng thép với giá cao hơn 5 USD/tấn, đạt 565 USD/tấn xuất xưởng trong khi ít nhất một nhà máy tại Marmara đã bán được một lượng thép nhất định với giá 585 USD/tấn xuất xưởng.
Giá thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ cũng tăng 5 đô la/tấn, lên 572,50 đô la/tấn (giá xuất xưởng). Tuy nhiên, thị trường thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ vẫn ảm đạm, do người mua EU vẫn chưa rõ cách tính toán chi phí liên quan đến cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) dự kiến được triển khai từ đầu năm 2026.
Phế: Thị trường nhập khẩu phế sắt Thổ Nhĩ Kỳ đã trầm lắng hôm thứ Ba sau khi đợt bán tháo ồ ạt vào cuối tuần trước đã đẩy giá phế HMS 80:20 ở mức 360 USD/tấn.
Giá phế HMS 1/2 80:20 vẫn ở mức 361 USD/tấn vào ngày 25 tháng 11.
Giá phế sắt HMS 1/2 80:20 cfr Thổ Nhĩ Kỳ (chặng đường biển ngắn) vẫn ở mức 343 đô la/tấn do không có hoạt động giao dịch sôi động.
Châu Âu
HRC: Giá thép cuộn cán nóng (HRC) Tây Bắc Âu đã giảm hôm thứ Ba sau khi xuất hiện các giao dịch giá thấp hơn, với giá HRC Tây Bắc Âu ở mức 605 euro/tấn (giá xuất xưởng), giảm 8,50 euro/tấn.
HRC hàng ngày tại Ý không đổi trong ngày ở mức 614,75 euro/tấn xuất xưởng, và giá cif tại Ý cũng vậy ở mức 480 euro/tấn.
Biển Đen
Phôi thép: Giá phôi hàng ngày vẫn ở mức 437,50 USD/tấn FOB Biển Đen, tương đương với các giao dịch gần đây, do các nhà cung cấp Nga vẫn chưa thể đẩy mạnh việc tăng giá mặc dù giá phế liệu tăng mạnh.
Giá chào mua phôi thép Trung Quốc từ người mua Thổ Nhĩ Kỳ được niêm yết ở mức 455-460 đô la/tấn CFR, trong khi giá chào bán được niêm yết ở mức 465-470 đô la/tấn CFR, hoặc 435-440 đô la/tấn FOB.
Trung Quốc
Quặng Sắt và Viên Quặng
Giá quặng sắt vận chuyển đường biển tiếp tục dao động trong biên độ hẹp, với chỉ số ICX 62% Fe tăng nhẹ 20 cent/tấn khô lên 105,25 USD/dmt CFR Thanh Đảo. Động lực giao dịch sôi động, đặc biệt đối với các lô hàng giao tháng 1/2026. Tập đoàn Rio Tinto đặt mức chiết khấu cho hợp đồng tháng 12 là 0 USD/dmt, thu hẹp mức chiết khấu tháng 11.
Tại cảng, giao dịch diễn ra mạnh mẽ, được hỗ trợ bởi các thương nhân tích cực nhập hàng để chuẩn bị bổ sung hàng vào mùa đông. Điều này đã đẩy chỉ số quặng sắt tại cảng Thanh Đảo tăng nhẹ 1 NDT/tấn ướt lên 801 NDT/wmt. Tuy nhiên, các nhà máy thép vẫn chủ yếu mua cầm chừng các nguồn tài nguyên tại cảng.
Đối với Viên quặng sắt, giá vẫn được giữ ổn định 119,50 USD/dmt cho loại 63% Fe, 3,5% alumina, bất chấp giá quặng mịn tăng. Tính thanh khoản thấp do nguồn cung thứ cấp hạn chế và người bán Trung Đông giữ giá đã kiềm chế đà tăng của loại vật liệu này.
Than Luyện Kim và Than Cốc
Giá than luyện cốc cứng cao cấp (PLV) của Úc đã tăng nhẹ (198,75 USD/tấn FOB), nhờ vào những dấu hiệu ban đầu cho thấy nhu cầu cải thiện từ Ấn Độ, mặc dù thanh khoản thị trường vẫn hạn chế. Tuy nhiên, than loại hai lại có xu hướng giảm nhẹ.
Tại thị trường giao ngay nội địa Trung Quốc, tâm lý vẫn chịu áp lực giảm, với giá than luyện cốc nguyên khai ở Sơn Tây tiếp tục giảm 80 NDT/tấn. Các nhà máy hạ nguồn thận trọng mua hàng, và hợp đồng tương lai than cốc trên Sàn giao dịch Đại Liên tiếp tục giảm, phản ánh tâm lý bi quan. Thị trường đang theo dõi sát sao liệu các nhà sản xuất thép lớn có đề xuất giảm giá mua than cốc vào cuối tuần này hay không.
Thép Dài (Thép Cây và Phôi Thép)
Động lực tăng giá trên thị trường thép dài đang chậm lại sau một đợt phục hồi ngắn. Giá thép cây xuất kho tại Thượng Hải tăng nhẹ 10 NDT/tấn, nhưng giao dịch vật chất tại các thành phố lớn đã giảm mạnh 30.000 tấn so với ngày trước, xuống còn 100.000 tấn. Nhu cầu thép xây dựng đang vào mùa thấp điểm (tháng 11 và 12). Mặc dù các thương nhân vẫn lạc quan trước thềm Hội nghị Công tác Kinh tế Trung ương, nhu cầu thực tế yếu đang chi phối thị trường.
Giá thép cây và phôi thép xuất khẩu vẫn ổn định do nhu cầu quốc tế yếu, mặc dù giá nội địa có xu hướng tăng.
Thép Dẹt (HRC)
Thị trường nội địa Trung Quốc tăng điểm, được hỗ trợ bởi tâm lý thị trường được củng cố nhờ động thái bơm 1 nghìn tỷ NDT thanh khoản qua chương trình MLF của Ngân hàng Trung ương. Giá HRC xuất kho Thượng Hải tăng 10 NDT/tấn.Tuy nhiên, giới kinh doanh cho rằng thị trường nội địa sẽ duy trì biến động trong biên độ hẹp do nguồn cung dồi dào khiến giá khó tăng mạnh, trong khi sự hỗ trợ chi phí lại ngăn giá giảm sâu.
Trên thị trường xuất khẩu, giá HRC FOB Trung Quốc ổn định. Mặc dù các nhà máy tăng giá chào xuất khẩu lên 475-484 USD/tấn FOB, họ gặp phải sự kháng cự lớn từ người mua nước ngoài, đặc biệt là Việt Nam. Chênh lệch lớn giữa giá chào và giá thầu (490- 495USD/tấn CFR Brazil so với giá chào 520-525 USD/tấn đã làm đình trệ giao dịch trên nhiều tuyến.
Thị trường thép đang bị chi phối bởi trạng thái cân bằng mong manh. Trong khi chi phí nguyên liệu thô (quặng sắt) và các động thái bơm thanh khoản hỗ trợ giá, thì nhu cầu hạ nguồn, đặc biệt là thép xây dựng, đang vào mùa thấp điểm và tâm lý thận trọng (mua cầm chừng) của người mua quốc tế đang ngăn cản đà tăng giá mạnh mẽ của cả thép dài và thép dẹt.
Việt Nam
Hoạt động mua bán thép tại Việt Nam đang diễn ra chậm lại do hai yếu tố chính: mức tồn kho cao và nhu cầu tiêu thụ nội địa yếu. Tâm lý mua hàng của người mua Việt Nam hiện đang rất thận trọng.
Giá Thép Cuộn Cán Nóng (HRC) Nhập khẩu
Giá chào: Các nhà cung cấp quốc tế, bao gồm Trung Quốc, tiếp tục chào bán HRC với mức giá cao hơn mong muốn của người mua Việt Nam. Cụ thể, HRC Trung Quốc được chào ở mức 478-480 USD/tấn CFR Việt Nam, trong khi mức giá dự kiến của người mua chỉ là 470 USD/tấn CFR.
Kháng cự về giá: Người mua Việt Nam cũng thể hiện sự kháng cự với mức giá chào HRC từ các nước khác:
HRC Indonesia được chào ở mức 494 USD/tấn CFR.
HRC Ấn Độ được chào ở mức 485 USD/tấn CFR, nhưng nhu cầu mua thực tế chỉ dừng lại ở mức 480 USD/tấn CFR, mức giá bị người bán từ chối.
Thép Tái xuất: Đối với HRC Q195 cho mục đích tái xuất, người mua đang yêu cầu giảm giá 10 USD/tấn so với giá chào 450-451 USD/tấnCFR Việt Nam.
Người mua Việt Nam không muốn đặt hàng với các lô hàng giao sau tháng 12/2025 do đang có các cuộc điều tra lách luật diễn ra, gây ra sự không chắc chắn về thuế và rủi ro pháp lý.
Do nhu cầu nội địa yếu và tồn kho cao, một số công ty thương mại dự đoán rằng các nhà sản xuất thép Việt Nam có thể sẽ giảm giá HRC nội địa xuống khoảng 490 USD tấn CIF trong tháng tới.








