Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Những nhóm hàng xuất khẩu chính 7 tháng năm 2018

 Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trị giá xuất khẩu hàng hóa cả nước trong tháng đạt 20,32 tỷ USD, tăng 2,4% so với tháng trước, tương ứng tăng 475 triệu USD về số tuyệt đối.

 

Trong tháng, kim ngạch xuất khẩu tăng chủ yếu do tăng xuất khẩu 4 nhóm hàng điện thoại các loại & linh kiện tăng 542 triệu USD, hàng dệt may tăng 126 triệu USD, sắt thép các loại tăng 80 triệu USD, dầu thô tăng 61 triệu USD.

Bên cạnh đó, một số nhóm hàng chủ lực suy giảm như  máy ảnh máy quay phim & linh kiện giảm 88 triệu USD, máy móc thiết bị dụng cụ & phụ tùng giảm 54 triệu USD, gạo giảm 59,2 triệu USD, xăng dầu các loại giảm 55,7 triệu USD, cà phê giảm 47 triệu USD.

Điện thoại các loại và linh kiện: xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng đạt 3,86 tỷ USD, tăng 16,3% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 7/2018, trị giá xuất khẩu của nhóm hàng này đạt 26,48 tỷ USD, tăng 17,4% so với cùng thời gian năm trước.

Trong 7 tháng tính từ đầu năm 2018 Việt Nam chủ yếu xuất khẩu nhóm hàng này sang các thị trường: EU (28 nước): 7,79 tỷ USD, tăng 16,5%; Trung Quốc: 2,86 tỷ tăng 3,5 lần; Hoa Kỳ: 2,74 tỷ USD, tăng 22,4%; Hàn Quốc: 2,63 tỷ USD, tăng 29,4%; Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống Nhất: 2,45 tỷ USD, tăng 9,4%...

Hàng dệt may: xuất khẩu hàng dệt may trong tháng đạt 2,87 tỷ USD, tăng 4,6% so với tháng trước, nâng trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 7 tháng/2018 đạt 16,52 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm trước.

Trong 7 tháng tính từ đầu năm 2018, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất từ Việt Nam với trị giá đạt 7,69 tỷ USD, tăng 11,3% so với cùng thời một năm trước đó và chiếm 46,5% tổng trị giá xuất khẩu hàng dệt may của cả nước; tiếp theo là thị trường thị trường EU đạt trị giá 2,32 tỷ USD, tăng 11,9%; thị trường Nhật Bản đạt trị giá 2,05 tỷ USD, tăng 24,2%; thị trường Hàn Quốc đạt trị giá 1,57 tỷ USD, tăng 25,1%. so với một năm trước đó;..

Máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện: trị giá xuất khẩu nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện trong tháng 7 đạt 2,5 tỷ USD, tăng nhẹ 0,3% so với tháng trước, đưa trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 7 tháng đầu năm đạt 15,94 tỷ USD, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm trước.

Trong 7 tháng/2018, xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc dẫn đầu với trị giá đạt 4,33 tỷ USD, tăng 28,4%; xuất khẩu sang EU (28 nước) đạt gần 3 tỷ USD, tăng 19,9%; sang Hàn Quốc đạt trị giá 1,55 tỷ USD, tăng 56,8%; sang Hoa Kỳ đạt trị giá 1,54 tỷ USD giảm 8,5% so với cùng thời gian năm trước…

Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác: xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng 7/2018 đạt 1,3 tỷ USD, giảm 4% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 7 trị giá xuất khẩu nhóm hàng này đạt 9,21 tỷ USD, tăng 30,3% so với cùng kỳ năm trước.

Các thị trường nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng trong 7 tháng từ đầu năm 2018 chủ yếu gồm: Hoa Kỳ với 1,65 tỷ USD, tăng 16,4%; sang EU (28 nước) đạt trị giá 1,23 tỷ USD, tăng 27,9%; Ấn Độ với 1,24 tỷ USD, tăng gấp 6,9 lần; Nhật Bản với 1,03 tỷ USD tăng 5,4% so với cùng thời gian năm 2017...

Giày dép các loại: xuất khẩu giầy dép các loại trong tháng 7/2018 đạt 1,44 tỷ USD, giảm 1,4% so với tháng trước, đưa trị giá xuất khẩu giày dép của cả nước trong 7 tháng/2018 đạt 9,13 tỷ USD, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước.

Xuất khẩu nhóm hàng này sang các thị trường Hoa Kỳ đạt trị giá 3,28 tỷ USD, tăng 13,5%; sang EU (28 nước) đạt trị giá 2,69 tỷ USD, tăng nhẹ 0,2%; sang thị trường Trung Quốc đạt trị giá 812 triệu USD, tăng 30,7% so với cùng thời gian năm 2017…

Gỗ và sản phẩm gỗ: xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng 7/2018 đạt trị giá 730 triệu USD, giảm 2,6% so với tháng trước. Tính đến hết tháng 7 trị giá xuất khẩu nhóm hàng này đạt 4,86 tỷ USD, tăng 13,7% so với cùng kỳ năm trước.

Gỗ và sản phẩm gỗ trong 7 tháng/2018 được xuất khẩu chủ yếu đến các thị trường Hoa Kỳ với trị giá 2,03 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm trước; sang Trung Quốc với 631 triệu USD, tăng 1,6%; sang Nhật Bản với 620 triệu USD, tăng 6,1%; …

Hàng thủy sản: trị giá xuất khẩu trong tháng là 765 triệu USD, tăng nhẹ 0,2% so với tháng trước, đưa trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 7 tháng đầu năm nay đạt 4,73 tỷ USD, tăng 8,5% so với cùng thời gian năm trước.

Hàng thủy sản trong 7 tháng tính từ đầu năm 2018 chủ yếu được xuất khẩu sang thị trường: EU (28 nước) với 835 triệu USD, tăng 15,8%; Hoa Kỳ: 793 triệu USD; tăng 0,8%; Nhật Bản: 734 triệu USD, tăng 4,5%; Trung Quốc: 556 triệu USD, tăng 2,8% … so với một năm trước đó.

Phương tiện vận tải và phụ tùng: xuất khẩu nhóm hàng này trong tháng đạt 627 triệu USD, tăng 2,3% so với tháng trước, đưa trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 7 tháng/2018 đạt 4,66 tỷ USD, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm 2017.

 

Các thị trường nhập khẩu phương tiện vận tải và phụ tùng từ Việt Nam trong 7 tháng đầu năm gồm: Nhật Bản với trị giá đạt 1,37 tỷ USD, tăng 14,6%; sang Hoa Kỳ đạt 734 triệu USD, tăng 12%; sang Singapore đạt trị giá 258 triệu USD, tăng 84,2% so với cùng thời gian năm trước…

Sắt thép các loại: lượng xuất khẩu sắt thép các loại trong tháng 7 đạt 598 nghìn tấn, với trị giá đạt 430 triệu USD, tăng 32,1% về lượng và tăng 22,9% về trị giá. Qua đó đưa lượng xuất khẩu mặt hàng này trong 7 tháng từ đầu năm 2018 đạt 3,41 triệu tấn, trị giá 2,53 tỷ USD, tăng 40,6% về lượng và tăng 56,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2017.

Sắt thép các loại 7 tháng đầu năm nay chủ yếu xuất khẩu sang các thị trường Campuchia là 718 nghìn tấn, tăng 49,1%; Hoa Kỳ: 533 nghìn tấn, tăng 73,6%; In-đô-nê-xi-a: 373 nghìn tấn, tăng 22,3%; Ma-lai-xi-a: 392 nghìn tấn, tăng 88,5%; EU (28 nước): 374 nghìn tấn, tăng 96,2% so với cùng kỳ năm trước.

Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện: trị giá xuất khẩu trong tháng là 292 triệu USD, giảm 23,1% so với tháng trước, đưa trị giá xuất khẩu nhóm hàng này trong 7 tháng đầu năm nay đạt 2,36 tỷ USD, tăng 34,9% so với cùng thời gian năm trước.

Tính đến tháng 7 năm 2018, máy ảnh, máy quay phim và linh kiện chủ yếu được xuất khẩu sang thị trường:  Trung Quốc với 1,06 tỷ USD, tăng 16,3%; Hồng  Kông: 646 triệu USD; tăng 34,2%; Hàn Quốc: 213 triệu USD, tăng gấp 3,5 lần so với một năm trước đó…

Nguồn tin: Vinanet

ĐỌC THÊM