Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tuần 43/2022: Dự báo xu hướng thép TQ

Giá thép duy trì xu hướng giảm trong tháng 10 dù vào thời điểm “Tháng 9 vàng tháng 10 bạc” khiến tâm lý thị trường sụp đổ. Triển vọng giá cả vẫn u ám khi cuối năm cận kề do nhu cầu chậm chạp và tâm lý giảm giá chiếm ưu thế.

Thị trường trong nước

Thép xây dựng

Tâm lý thị trường giao ngay nhìn chung bi quan, nhu cầu tích trữ và nhu cầu đầu cơ rất ít, lượng giao dịch vật liệu xây dựng trên toàn quốc khoảng 140,000-170,000 tấn. Tình hình giao dịch tại các thị trường nói chung ảm đạm và giữ triển vọng giảm giá.

Giá thép cây HRB400 tại thị trường giao ngay Thượng Hải giảm thêm 40 NDT/tấn tuần qua xuống còn 3,760 NDT/tấn về cuối tuần.

Thép cây giao sau tháng 1 giảm 31 NDT/tấn so với tuần trước đó xuống 3,563 NDT/tấn.

Nhìn nhận thị trường, về lượng cầu, sắp bước sang tháng 11-tháng 12, nhiệt độ sẽ giảm xuống, một số dự án tạm dừng hoạt động, nhu cầu phía Bắc yếu dần, ảnh hưởng từ các chính sách đóng cửa covid 19, giao thông sẽ bị chặn, giao dịch sẽ bị hạn chế và khó hình thành hỗ trợ về giá.

Các nhà máy, xí nghiệp luyện thép đều rơi vào tình trạng thua lỗ. Gần đây, các hoạt động bảo trì và giảm sản lượng đã gia tăng, trong khi tốc độ tồn kho trên thị trường chậm lại. Đối với rủi ro tồn kho trong thời gian sau, hầu hết các chủ buôn đều nghĩ đến việc giảm kho để tránh rủi ro, đồng thời tích cực chuyển hàng theo đợt. Về quan điểm, dự kiến ​​giá thị trường vẫn yếu và điều chỉnh giảm là chủ yếu vào tháng 11 trước khi có thể dần củng cố ổn định tháng 12.

Thép công nghiệp

Cuộn cán nóng: Tuần qua, giá thị trường tăng và giảm đều đặn, dao động từ 10-50 NDT/tấn. Đầu tuần, lực đỡ giá nguyên liệu thô yếu. Vào giữa tuần, với sự gia tăng của dịch bệnh ở nhiều nơi và tác động của việc Fed tăng lãi suất, các yếu tố tiêu cực trên thị trường chồng chất, và việc giải phóng nhu cầu đầu cuối bị cản trở, khiến tình hình thị trường bi quan hơn nữa về cuối tuần.

Giá xuất xưởng HRC tại Thượng Hải giảm nhẹ 10 NDT/tấn so với tuần trước xuống 3,770 NDT/tấn (521 USD/tấn).

HRC kỳ hạn tháng 1 nhích 2 NDT/tấn xuống 3,614 NDT/tấn. Hàng tồn kho HRC do các nhà máy và thương nhân nắm giữ đã giảm hơn 90,000 tấn trong tuần này, nhanh hơn mức giảm 40,000 tấn của tuần trước, nhưng điều này chủ yếu được đóng góp bởi việc cắt giảm sản lượng của các nhà máy khi sản lượng HRC giảm hơn 30,000 tấn trong tuần này.

Một số nhà máy thép ở miền đông Trung Quốc đang có kế hoạch cắt giảm sản lượng HRC vào tháng 11 và chuyển sang sản xuất thép cây vì mức lỗ thấp hơn HRC.

Các nhà máy đang chịu lỗ khoảng 200 NDT/tấn đối với HRC so với mức hòa vốn đối với thép cây. Nhiều khu vực của Trung Quốc vẫn đang đóng cửa do chính sách không Covid-19, khiến tâm lý thị trường chịu thêm áp lực. Dự kiến ​​việc bảo dưỡng sau này sẽ còn tăng lên.

Trong tháng 11, giá cả dự kiến tiếp tục suy yếu, xu hướng thua lỗ mở rộng với các nhà máy thép. Việc cắt giảm sản xuất và bảo trì sẽ tăng lên nên giúp giảm sản lượng thép nói chung, không gây áp lực về nguồn cung.

Về nhu cầu, do chính sách không covid trong bối cảnh dịch bệnh phức tạp sẽ còn gây áp lực lên tâm lý thị trường. Cuộc họp của Đảng lần thứ 20 không đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ, vì vậy nhu cầu khó cải thiện và không mấy lạc quan vào Q4. Phạm vi giảm hạn chế, tầm 100 NDT/tấn trong tháng 11.

Cuộn cán nguội: chịu áp lực chung từ giá thép kỳ hạn yếu và dịch bệnh, nhu cầu thị trường nhìn chung không tốt vì vậy nhiều thương nhân và nhà máy giảm giá chào bán giao ngay.

Tồn kho của các nhà máy thép cán nguội là 385,000 tấn trong tuần, tăng 8,500 tấn so với tuần trước, trong khi tổng tồn kho là 1,676,300 tấn, giảm 8,200 tấn so với tháng trước.

Nguồn cung có tăng nhẹ nhưng tốc độ tăng trưởng đã bị thu hẹp đáng kể so với tháng trước. Nguyên nhân chính là do các nhà máy chuyển sang sản xuất vật liệu xây dựng hoặc các loại vật liệu khác vì ít thua lỗ hơn.

Mặc dù các biện pháp kiểm soát dịch bệnh ở nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước đã được siết chặt nhưng tác động vẫn chưa như mong đợi. Trước tình hình dịch bệnh diễn biến nghiêm trọng ở nhiều tỉnh, thành phố, các biện pháp phòng chống dịch ngày càng khắt khe hơn, từ đó ảnh hưởng đến nhịp độ vận chuyển và tiêu thụ.

Với tình hình thời tiết xấu ở miền Bắc, sản lượng hạn chế và nhu cầu trái vụ, cả cung và cầu đều suy yếu trở lại dưới mức hoạt động kém khiến giá giao ngay dần điều chỉnh. Đây là nguyên nhân chính khiến thị trường thận trọng hoặc không lạc quan trong giai đoạn này. Nhìn tổng thể, với giao dịch ngày càng kém, khả năng giá còn yếu vào tháng 11.

Mạ kẽm: Tương tự các thị trường khác, tình hình dịch bệnh ở nhiều nơi trỗi dậy, một số khu vực được quản lý âm thầm, giao thông bị tắc nghẽn, tác động tiêu cực tới giá mạ kẽm.

Giá thép cuộn mạ kẽm chủ yếu giảm. Thời tiết khu vực phía đông bắc chuyển lạnh đã hạn chế việc thi công hạ nguồn ở mức độ nhất định. Nhu cầu cuối kém, nhịp độ giao dịch chung chậm lại, lô hàng không lý tưởng và quỹ của thương nhân tương đối eo hẹp vào cuối tháng.

Về triển vọng thị trường, các yếu tố thời tiết và dịch bệnh vẫn hạn chế nhu cầu nội địa. Ngoài ra, không có tín hiệu rõ ràng nào, nên cần thẩn trọng ngắn hạn. Nhìn chung, dự kiến ​​giá mạ kẽm sẽ còn yếu tháng 11.

Thép tấm: Tuần qua, thị trường tấm thép nhìn chung là yếu, bị ảnh hưởng bởi dữ liệu vĩ mô giảm, tâm lý giảm giá chiếm ưu thế, khiến thị trường chịu áp lực. Nhu cầu chậm, khó thay đổi đà giảm giá hiện tại của thị trường giao ngay.

Trong tuần, biên độ điều chỉnh giảm là 30-50 NDT/tấn.

Giá trung bình hàng tuần của thép tấm 20mm trong tuần này là 4,045 NDT/tấn, giảm 54 NDT/tấn so với giá tuần trước. Tổng tồn kho 1,976,400 tấn, tăng nhẹ.

Thị trường xuất khẩu

Xu hướng chính trên thị trường xuất khẩu cũng là giảm giá, theo sự suy yếu giá nội địa và nhu cầu thấp của người mua. Chênh lệch chào bán- chào mua mở rộng khiến giao dịch bế tắc. Người mua chủ yếu chờ đợi còn người bán không muốn giảm quá sâu vì càng làm tâm lý thị trường giảm.

Trên thị trường xuất khẩu thép cây, các nhà máy lớn của Trung Quốc cắt giảm giá xuống 25-30 USD/tấn so với tuần trước, còn 550-570 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết mặc dù giá nội địa thấp hơn. Tỷ giá hối đoái của đồng Nhân dân tệ so với USD đã tăng lên 7.191 vào ngày 26/10 sau khi chạm mức thấp nhất trong nhiều năm ở mức 7/34 vào ngày 25/10. Các nhà máy Trung Quốc muốn ổn định giá chào hàng của họ về cuối tuần trong bối cảnh tỷ giá tiền tệ biến động. Thanh khoản xuất khẩu nói chung ở mức thấp với nhu cầu tại các thị trường lớn Đông Nam Á không có dấu hiệu cải thiện.

Các nhà máy cuộn dây lớn ở phía bắc Trung Quốc cũng giảm giá chào cuộn dây xuất khẩu xuống 20-30 USD/tấn, lùi về mức 560 USD/tấn fob cho lô hàng tháng 12 và mức bán hàng mục tiêu là 550 USD/tấn fob. Các lời chào bán khống của các thương nhân đã được nghe thấy ở mức 550 USD/tấn cfr Pakistan, tương đương 520 USD/tấn fob Trung Quốc.

Trên thị trường cuộn cán nóng đường biển, thị trường trầm lắng, không có thay đổi nào về lượng chào bán và người mua đường biển ngần ngại trả giá do không chắc chắn. Người bán đã không giảm giá bán thêm vì sự chênh lệch giữa các chào hàng và mức độ chấp nhận được từ người mua là rất rộng. Việc giảm giá hàng ngày khi không có nhu cầu là vô nghĩa. Thị trường đã đi đến một bế tắc đột ngột. Các nhà máy lớn của Trung Quốc đã hạ giá chào xuống còn 540-550 USD/tấn fob Trung Quốc đối với HRC SS400 và một số sẵn sàng nhận đơn đặt hàng ở mức 530 USD/tấn fob Trung Quốc, so với mức thấp nhất 540-555 USD/tấn tuần trước.

Thị trường Việt Nam bị tắt tiếng với chào giá hạn chế ở mức 540-545 USD/tấn cfr Việt Nam cho HRC SAE1006 Trung Quốc.

Thị trường đường biển cho các sản phẩm thép dẹt khác của Trung Quốc cũng trầm lắng. Một thương nhân Trung Quốc cho biết người bán không thể bán được với giá 560 USD/tấn fob Trung Quốc đối với thép tấm SS400, 600 USD/tấn fob Trung Quốc đối với thép cuộn cán nguội và 640 USD/tấn fob Trung Quốc đối với thép mạ kẽm nhúng nóng 120g zn.

Các nhà máy thép Trung Quốc đã cắt giảm giá chào hàng thép cuộn cán nguội từ 10 - 20 USD/tấn so với tuần trước xuống 595 - 609 USD/tấn fob trong tuần này, phù hợp với việc đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc giảm giá hồi đầu tuần. Các thương nhân lưu ý rằng mức thấp nhất mà các nhà máy có thể chấp nhận là khoảng 590-595 USD/tấn fob vào đầu tuần này và cao hơn một chút vào hôm qua sau khi đồng nhân dân tệ của Trung Quốc tăng giá.

Giá chào xuất khẩu đối với thép tấm loại SS400 ở mức khoảng 600-610 USD/tấn fob trong tuần này, nhưng các thương nhân đã bán khống ở mức 560-570 USD/tấn fob do nhu cầu thấp và triển vọng giảm.

Một nhà máy ở phía bắc Trung Quốc đã chào bán thép mạ kẽm nhúng nóng ở mức 666 USD/tấn fob cho cuộn Zn140g, giảm 5 USD/tấn so với tuần trước. Giá cuộn Zn40g cũng giảm trong phạm vi tương tự xuống còn 615 USD/tấn fob.

Quặng sắt

Giá quặng sắt trên đường biển mở rộng đà thua lỗ về cuối tháng 10 do dữ liệu thép kém và các nhà máy đang lên kế hoạch bảo trì và đóng cửa lò cao vì thua lỗ, gây tiêu cực lên giá nguyên liệu thô.

PMI thép của Trung Quốc giảm 2.3% xuống 44.3 trong tháng 10 so với tháng 9. Một số nhà máy ở miền bắc Trung Quốc, bao gồm cả ở các tỉnh Sơn Tây và Hà Bắc, đã bắt đầu bảo trì và ngừng hoạt động để cắt giảm tổn thất thép.

Chỉ số quặng 62%fe giảm về 79 USD/tấn cfr Thanh Đảo, mất 13 USD/tấn trong 1 tuần. Giá quặng đang mất khoảng 15% giá trị hàng tháng.

Các giao dịch tắt tiếng. Nhu cầu của các nhà máy thép vẫn yếu và các thương nhân có thái độ thận trọng trong việc bán hàng vì họ sẽ chịu lỗ lớn ở mức giá hiện tại.  Các nhà máy thép tiếp tục đối mặt với thua lỗ và nhiều nhà máy được cho là đang tiến hành bảo trì.

Giá quặng sắt chuẩn cuối năm được dự báo sẽ ở mức thấp nhất trong ba hoặc bốn năm qua với việc Trung Quốc và Châu Âu cắt giảm sản lượng thép, trong khi áp lực gia tăng từ nguồn cung bổ sung.

Giá dự kiến tiếp tục giảm về cuối năm, xuống phạm vi 70 USD/tấn cfr Trung Quốc.

Triển vọng thị trường thép

Nhìn chung, triển vọng thị trường vẫn ảm đạm cuối năm, trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu ngày càng trầm trọng và dự kiến còn tệ hơn vào năm sau. 

Yếu tố áp lực

_Kinh tế vĩ mô suy yếu.

_Thị trường bất động sản u ám cuối năm, bên cạnh chính sách không khoan nhượng covid của Trung Quốc và không có nhiều chính sách hỗ trợ sau đại hội Đảng Trung Quốc lần thứ 20.

_Chính sách không khoan nhượng với covid đã làm giảm tăng trưởng kinh tế Trung Quốc. Bất ổn địa chính trị do căng thẳng Nga-Ukraina cũng khiến thị trường bất ổn.

_Bên cạnh đó, đồng NDT mất giá tiếp tục kéo giá giảm. Sự sụt giảm tiền tệ dự kiến ​​sẽ tiếp tục làm tổn hại đến tính thanh khoản của thị trường trong tương lai gần. Trung Quốc đã trải qua mùa cao điểm “Tháng 9 vàng tháng 10 bạc” không như kỳ vọng. Người dùng cuối vẫn chậm bắt kịp đà tăng của thị trường do nhu cầu ở hạ nguồn yếu, khiến tồn kho gia tăng.

_ Các yếu tố thời tiết sẽ ảnh hưởng nhiều hơn đến tiến độ xây dựng về cuối năm, và Fed sẽ tăng lãi suất vào đầu tháng 11.

Yếu tố hỗ trợ:

_Tuy nhiên, thị trường có thể được hỗ trợ phần nào từ chính sách giảm sản xuất mùa đông, thường bắt đầu vào tháng 11 hàng năm, mặc dù được cho là không nghiêm khắc như mọi năm, nhưng giúp giảm sản lượng và tồn kho về cuối năm khi tiêu thụ chậm.

_Chi phí năng lượng và nguyên liệu thô cũng gia tăng vào mùa đông khi quá trình gom gặp khó khăn và nhu cầu tiêu thụ điện năng, sưởi ấm tăng cao. Điều này sẽ hỗ trợ giá thép. Giá thép đã giảm suốt từ tháng 4 tới nay khiến lợi nhuận giảm mạnh và một số nhà máy vẫn đang thua lỗ. Điều này có vẻ gần đặt đáy cho giá thép.

Do đó, dự kiến xu hướng giá cả 2 tháng cuối năm không mấy khả quan, sẽ tiếp tục biến động nhưng phạm vi nhẹ và có thể củng cố về cuối năm. Giá HRC SAE1006 Trung Quốc dự kiến chào khoảng 550 cfr Việt Nam cuối năm.

Thép dài còn gọi là thép xây dựng (sử dụng trong ngành xây dựng) như thép hình, thép thanh và thép cây.

Thép dẹt được sử dụng trong ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, sản xuất ô tô, sản xuất các máy móc thiết bị công nghiệp, bao gồm các loại thép tấm, lá, cán nóng và cán nguội.

Lưu ý:  Dự báo trên chỉ mang tính tham khảo. Quý khách hàng nên tham khảo thêm nhiều nguồn tin khi quyết định mua bán.