Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Tuần 41/2021: Dự báo xu hướng thép TQ

Giá thép Trung Quốc tiếp tục biến động, liên quan đến các chính sách về giảm lượng, song xu hướng trong tuần này nhìn chung là giảm do việc giá cả tăng mạnh sau Tuần lễ vàng cuối tuần trước đã khiến nhu cầu chậm lại, cộng với các tin tức về gia tăng sản xuất tại Đường Sơn. Thị trường xuất khẩu cũng im ắng do nhu cầu đường biển yếu, buộc một số nhà máy phải giảm giá để tăng tính cạnh tranh, song vẫn cao hơn nhiều so với các đối thủ.

DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG THÉP DÀI

Sau khi kết thúc tuần lễ vàng cuối tuần trước, người dùng cuối ở Trung Quốc tích cực bổ sung, kỳ vọng giá sẽ tăng hơn nữa do nguồn cung thắt chặt. Thành phố Đường Sơn Trung Quốc đã yêu cầu các nhà máy cán lại độc lập tại địa phương tạm dừng sản xuất từ ​​ngày 07/10 và chưa đưa ra ngày kết thúc, sau khi một số nhà máy vừa tiếp tục sản xuất trong kỳ nghỉ lễ.

Giá thép cây HRB400 giao ngay Thượng Hải tăng 80 NDT/tấn lên 5,900 NDT/tấn vào cuối tuần do người dùng cuối dự trữ lại sau kỳ nghỉ lễ. Giá thép cây giao sau tháng 1 tăng 1.79% lên 5,750 NDT/tấn. Một số nhà giao dịch đã nâng giá chào bán thép cây lên 5,910 NDT/tấn trong bối cảnh thị trường tăng giá.

Tuy nhiên, kể từ đầu tuần này, nhu cầu tiêu thụ đã chậm lại do giá cả tăng cao. Các giao dịch hàng ngày của thép cây tại các thành phố lớn đã giảm từ 210,000 tấn vào ngày 9/10 xuống còn 170,000 tấn vào ngày 11/10 và 120,000 tấn vào ngày 12/10.

Các nhà máy lớn nhất của Trung Quốc đã giảm sản lượng xuống mức thấp nhất kể từ năm 2008 vào cuối tháng 9, nhưng sản lượng đang tăng trở lại sau khi các tỉnh đạt mục tiêu quý III. Sản lượng của các nhà máy ở Giang Tô đã phục hồi lên mức 20-50% so với mức bình thường với cả các nhà máy EAF và lò cao hoạt động trở lại. Điều này gây áp lực tâm lý, kéo giá sụt giảm trong tuần. Tuy nhiên, đến cuối tuần, một số nhà máy Giang Tô phải tiếp tục cắt giảm sản xuất thép từ ngày 14/10 để giảm phát thải và giảm tải tiêu thụ điện năng. Các lò cao lớn ở Giang Tô được yêu cầu giảm tiêu thụ điện 30%. Tỉnh Hà Nam đã yêu cầu một số nhà sản xuất EAF cắt giảm sản lượng 30-50%. Tin tức này giúp giá cả nhích nhẹ trở lại.

So với cuối tuần trước, giá thép cây HRB400 tại Thượng Hải giảm 140 NDT/tấn xuống 5,770 NDT/tấn. Các nhà giao dịch đã cắt giảm giá chào bán xuống còn 5,750-5,760 NDT/tấn, kỳ vọng nguồn cung thép cây vẫn eo hẹp.

Trên thị trường xuất khẩu, giá cả nội địa giảm với một nhà máy miền đông Trung Quốc đã giảm giá chào bán từ 955 USD/tấn xuống 915 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết vào ngày 11/10. Giá từ các nguồn khác đang có xu hướng tăng do giá phế liệu cao hơn, nhưng giá vẫn thấp hơn nhiều so với giá Trung Quốc. Thép cây Nhật Bản được chào bán cho Hàn Quốc với giá 805 USD/tấn cfr trọng lượng lý thuyết so với giá thép cây nội địa Trung Quốc ở mức 860-900 USD/tấn cfr trọng lượng lý thuyết tại các thành phố lớn. Do đó, dù giá giảm vẫn chưa thể cạnh tranh.

Các nhà máy lớn của Trung Quốc giảm giá chào cuộn dây về 905 USD/tấn fob, song không nhận được yêu cầu nào từ những người mua lớn.

DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG THÉP DẸT

Giá HRC cũng giảm mạnh trở lại từ đầu tuần do nhu cầu tiêu thụ chậm và sản lượng gia tăng ở Giang Tô gây áp lực. Tâm lý thị trường nhận được sự hỗ trợ từ kế hoạch hạn chế sản xuất mùa đông nhưng triển vọng kinh tế vĩ mô yếu hơn và nhu cầu thấp hơn trong thời gian còn lại của năm đã kìm hãm đà tăng của giá.

Giá thép cây Thượng Hải tăng 1,090 NDT/tấn, tương đương 22.4% lên 5,950 NDT/tấn từ ngày 1/7 đến ngày 11/10. Trong khi đó, giá xuất xưởng HRC tăng 350 NDT/tấn, tương đương 6.4%, lên 5,850 NDT/tấn trong cùng kỳ.

Hiện tại, giá cả đã giảm lại khoảng 80 NDT/tấn so với tuần trước xuống 5,770 NDT/tấn.

Tồn kho HRC do các thương nhân và nhà máy nắm giữ đã giảm hơn 60,000 tấn trong tuần này sau khi tăng hơn 100,000 tấn trong tuần trước trong kỳ nghỉ lễ quốc khánh. Giá cả biến động trong tuần này do tâm lý đã thay đổi nhanh chóng trước tin tức về việc các nhà máy tái sản xuất và ngưng sản xuất trở lại. "Nhu cầu thép nói chung là yếu, vì vậy giá giảm dễ hơn tăng", một thương nhân ở miền đông Trung Quốc cho biết.

Trên thị trường xuất khẩu, các nhà máy lớn khác của Trung Quốc im lặng, nhưng một số nhà máy và thương nhân nhỏ hơn có thể cân nhắc bán với giá 900-905 USD/tấn fob Trung Quốc cho HRC SS400 với giá bán trong nước tương đương khoảng 900 USD/tấn. Các máy Nhật Bản cũng cắt giảm giá chào bán khoảng 30 USD/tấn xuống còn 930 USD/tấn fob cho HRC SS400 vào Hàn Quốc, trong khi các nhà máy Brazil chào bán thép cuộn cấp SAE ở mức thấp 840 USD/tấn cfr, cho thấy xu hướng giá giảm.

Trong khi đó, một nhà máy lớn giữ giá chào HRP SS400 về Việt Nam ở mức 1,000 USD/tấn cfr.

Bộ Công nghiệp và Công nghệ Thông tin Trung Quốc đã hoàn tất kế hoạch hạn chế sản xuất từ ​​ngày 15/11 đến ngày 15/3 đối với Bắc Kinh-Thiên Tân-Hà Bắc và các khu vực lân cận. Chính phủ yêu cầu các địa phương hoàn thành chỉ tiêu kiểm soát sản lượng vào cuối năm. Kế hoạch có hai giai đoạn, trong đó giai đoạn thứ hai yêu cầu các nhà máy cắt giảm sản lượng 30% từ ngày 1/1 đến ngày 15/3/2022 so với cùng kỳ năm trước. Những hạn chế này dự kiến ​​sẽ chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất thép cuộn cán nóng, hỗ trợ giá cuối năm.

TRIỂN VỌNG GIÁ NGẮN HẠN

Giá thép Trung Quốc dự kiến sẽ tiếp tục biến động, song vẫn nhận được hỗ trợ chính từ các cắt giảm sản xuất cuối năm và cắt giảm do thiếu điện. Bù lại, các ngành tiêu thụ thép cũng phải giảm sản xuất do việc phân bổ điện năng.

Yếu tố hỗ trợ gồm:

_Cắt giảm sản xuất mùa đông hỗ trợ giá.

_ Giá thế giới ở mức cao.

_Nhu cầu vào mùa cao điểm.

_Chi phí than cốc cao kỷ lục, phế tăng giá về cuối năm.

_Chi phí điện cho sản xuất tăng, chi phí vận chuyển tăng.

Yếu tố trở ngại:

Chính phủ can thiệp ngăn giá không tăng quá cao, tránh lạm phát.

_Cắt giảm sản lượng kéo giá quặng giảm..

_Đầu tư bất động sản giảm để giảm nợ.

_Dịch bệnh, thiếu điện làm giảm hoạt động các ngành tiêu thụ HRC.

Do đó, dự kiến giá trong nước tăng giảm đan xen, về cận mức kỷ lục trên 6,000 USD/tấn hồi tháng 5 cho thép cây trong tháng 10, trong khi HRC tăng chậm hơn. Tình hình thay đổi về cuối năm khi giá HRC được hỗ trợ hơn bởi các cắt giảm sản xuất mùa đông. Nhưng giá không tăng mạnh vì nhu cầu chậm trong mùa đông.

Trên thị trường xuất khẩu, giá HRC giảm lại trong tháng do thiếu cạnh tranh và có thể phục hồi về cuối năm trong khoảng 960-980 USD/tấn cfr Việt Nam cho HRC SAE1006.

SẢN LƯỢNG  

Tháng 8 vừa qua, sản lượng thép thô của Trung Quốc đã giảm tháng thứ ba liên tiếp trong bối cảnh Bắc Kinh tiếp tục yêu cầu doanh nghiệp hạn chế sản xuất để giảm lượng khí thải carbon và tiêu thụ điện năng.

Dữ liệu từ Tổng cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc cho thấy, trong tháng 8, sản lượng thép thô của nước này đạt tổng cộng 83.24 triệu tấn - giảm 4.1% so với tháng 7 năm nay và hụt hơi đáng kể so với 94.85 triệu tấn của tháng 8 năm ngoái. Đây là mức thấp nhất kể từ tháng 3 năm ngoái và là tháng thứ ba liên tiếp sản lượng thép thô của đất nước tỷ dân đi xuống.

Cũng trong tháng 8, sản lượng thép thô trung bình theo ngày dao động quanh mức 2.69 triệu tấn, giảm so với con số 2.8 triệu tấn trong tháng 7, Reuters lưu ý thêm.

Trung Quốc đang tích cực cắt giảm sản xuất trong tháng 9 để đáp ứng mục tiêu giảm sản lượng của Chính phủ, chuẩn bị cho thế vận hội mùa đông diễn ra vào 15/9 và tiết kiệm năng lượng từ sử dụng thủy điện tại một số khu vực. Sản lượng giảm tiếp tục xuống 80-81 triệu tấn.

QUẶNG SẮT

Giá quặng sắt vẫn chịu áp lực suy yếu chính từ nhu cầu tiêu thụ giảm tại Trung Quốc do các chính sách cắt giảm sản lượng nghiêm ngặt.

Bộ Công nghiệp và Công nghệ Thông tin Trung Quốc đã hoàn tất kế hoạch hạn chế sản xuất từ ngày 15/11 đến ngày 15/3 đối với Bắc Kinh-Thiên Tân-Hà Bắc và các khu vực lân cận. Chính phủ yêu cầu các địa phương hoàn thành chỉ tiêu kiểm soát sản lượng vào cuối năm. Kế hoạch có hai giai đoạn, trong đó giai đoạn thứ hai yêu cầu các nhà máy cắt giảm sản lượng 30% từ ngày 1/1 đến ngày 15/3/2022 so với cùng kỳ năm trước.

Giá quặng sắt tại Đại Liên giảm 3% xuống mức thấp nhất trong gần hai tuần do nhu cầu của Trung Quốc đi xuống. Bên cạnh đó, Bắc Kinh ngày càng quyết liệt hơn khi áp đặt kiểm soát sản lượng thép trong quý đầu tiên của năm 2022.

Tình trạng nợ nần của Công ty bất động sản China Evergrande Group và sự sụt giảm về triển vọng nhu cầu tổng thể đã kéo giá của kim loại đen đi xuống. Hiện tại, các nhà phát triển bất động sản Trung Quốc đang phải đối mặt với các khoản tiền có thời hạn thanh toán trước cuối năm nay.

Giá quặng sắt giao tháng 1 trên Sàn giao dịch Hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc đã giảm 3% xuống 735 NDT (tương đương 114.19 USD)/tấn.

Giá quặng sắt giao ngay tại Trung Quốc giao dịch ở mức 106,50 USD/tấn, giảm 46% so với mức đỉnh kỷ lục vào giữa tháng 5/2021.

 “Chúng tôi kỳ vọng việc cắt giảm thép của Trung Quốc sẽ được nhắm mục tiêu trong Quý 4 khi nhu cầu chậm lại theo mùa và ô nhiễm không khí đang được chú trọng (đặc biệt là trước Thế vận hội mùa đông diễn ra vào ngày 22/2) và kết quả là chúng tôi kỳ vọng giá sẽ ổn định trong tháng 9 tháng 10 trước khi tiếp tục giảm trở lại dưới 100 đô USD/tấn vào năm 2022, ” các nhà phân tích của UBS viết trong một lưu ý gần đây.

Xét về triển vọng ngắn hạn trong tháng 10, giá cả tiếp tục biến động, dao động tầm 100-115 USD/tấn cfr Trung Quốc do áp lực từ giảm sản xuất, song nhu cầu tăng do than đá tăng giá quá mạnh. Tuy nhiên, xét về dài hạn tới cuối năm, giá giảm. Vì sao:

_ do sản xuất thép của Trung Quốc cắt giảm mạnh hơn nữa trong thời gian còn lại của năm, làm giảm nhu cầu quặng.

_thị trường bất động sản chậm lại trong Q4 do tín dụng thắt chặt vào lĩnh vực này để giảm nợ, nhất là với nguy cơ vỡ nợ của một trong những nhà phát triển bất động sản trung quốc evergande với khoảng nợ hơn 300 tỷ USD đã bắt đầu ảnh hưởng đến các nhà phát triển bất động sản lớn khác của Trung Quốc. Điều này làm giảm nhu cầu thép xây dựng, giảm quặng sắt.

_nguồn cung quặng dần tăng trở lại sau khi gián đoạn năm qua do thiên tai, tai nạn vỡ đập.

Giá cuối năm có thể mất thêm 10-15 USD/tấn xuống dưới 100 USD/tấn.

Thép dài còn gọi là thép xây dựng (sử dụng trong ngành xây dựng) như thép hình, thép thanh và thép cây.

Thép dẹt được sử dụng trong ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, sản xuất ô tô, sản xuất các máy móc thiết bị công nghiệp, bao gồm các loại thép tấm, lá, cán nóng và cán nguội.

Lưu ý:  Dự báo trên chỉ mang tính tham khảo. Quý khách hàng nên tham khảo thêm nhiều nguồn tin khi quyết định mua bán.